TLTK - Phân tích bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba trong vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ.
Đề 1 : Phân tích bi kịch của nhân vật hồn Trương Ba qua trích đoạn kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu
Quang Vũ.
Mở bài
|
Lưu Quang Vũ (1948 – 1988) là một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch
Việt Nam những năm tám mươi của thế kỷ XX.Ông được coi là nhà soạn kịch tài
năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt nam hiện đại. tác phẩm của ông toát
lên một ý vị triết lí và nhân sinh về đời người, kiếp người. Ông có nhiều tác
phẩm kịch gây chấn động dư luận , trong đó có vở kịch "Hồn Trương Ba, da
hàng thịt". Trong đoạn trích ( cảnh 7) của vở kịch, tác giả đã diễn
tả sâu sắc bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba, một con người phải sống
"bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo".
|
Thân bài:
Khái quát
|
“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là vở kịch đặc sắc
nhất của Lưu Quang Vũ, được sáng tác từ năm 1981, nhưng ba năm sau (1984) mới
được ra mắt khán giả.Từ cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã xây dựng lại
thành một vở kịch nói hiện đại và lồng vào đó nhiều triết lí nhân văn về cuộc
đời và con người. Trong tác phẩm, Trương Ba là một ông lão gần sáu mươi,
thích trồng vườn, yêu cái đẹp, tâm hồn thanh nhã, giỏi đánh cờ. Chỉ vì sự tắc
trách của Nam Tào gạch nhầm tên mà Trương Ba chết oan. Theo lời khuyên của
"tiên cờ" Đế Thích, Nam Tào, Bắc Đẩu "sửa sai" bằng cách
cho hồn Trương Ba được tiếp tục sống trong thân xác của anh hàng thịt mới
chết gần nhà. Nhưng điều đó lại đưa Trương Ba và một nghịch cảnh khi linh hồn
mình phải trú nhờ vào người khác. Do phải sống tạm bợ, lệ thuộc, Trương Ba
dần bị xác hàng thịt làm mất đi bản chất trong sạch, ngay thẳng của mình. Ý
thức được điều đó, Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quyết định chống lại bằng
cách tách ra khỏi xác thịt. Qua các cuộc đối thoại của Trương Ba, tác giả dần
tạo nên một mạch truyện dẫn dắt người xem hiểu sâu hơn về Trương Ba.
Đoạn trích là phần lớn cảnh VII. Đây
cũng là đoạn kết của vở kịch, đúng vào lúc xung đột trung tâm của vở kịch lên
đến đỉnh điểm. Sau mấy tháng sống trong tình trạng "bên trong một đằng,
bên ngoài một nẻo", nhân vật Hồn Trương Ba ngày càng trở nên xa lạ với
bạn bè, người thân trong gia đình và tự chán ghét chính mình, muốn thoát ra
khỏi nghịch cảnh trớ trêu.
|
Bi kịch tha hoá
|
a./ Bi kịch tha hoá của nhân vật Trương Ba trong đoạn trích
bắt đầu bằng lớp thứ nhất của cảnh 7, đó là màn đối thoại giữa Hồn Trương ba
và Xác hàng thịt.
-
Trước khi diễn ra cuộc đối thoại giữa hồn và xác, nhà viết kịch đã để cho Hồn
Trương Ba "ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy" với một lời
độc thoại đầy khẩn thiết:"- Không. Không! Tôi không muốn sống như thế
này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi này lắm rồi! . Hồn Trương
Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ thể hiện trong những câu
cảm thán ngắn, dồn dập cùng với ước nguyện khắc khoải . Hồn bức bối bởi không
thể nào thoát ra khỏi cái thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn đau khổ bởi mình không
còn là mình nữa. Trương Ba bây giờ vụng về, thô lỗ, phũ phàng lắm. Hồn Trương
Ba cũng càng lúc càng rơi vào trạng thái tuyệt vọng.
-
Trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt, Hồn Trương Ba ở vào thế yếu, đuối
lí bởi xác nói những điều mà dù muốn hay không muốn Hồn vẫn phải thừa nhận :
cái đêm khi ông đứng cạnh vợ anh hàng thịt với "tay chân run rẩy", "hơi thở nóng rực",
"cổ nghẹn lại" và "suýt nữa thì…". Đó là cảm giác "xao xuyến" trước những món
ăn mà trước đây Hồn cho là "phàm". Đó là cái lần ông tát thằng con
ông "tóe máu mồm máu mũi,… Xác anh hàng thịt gợi lại tất cả
những sự thật ấy khiến Hồn càng cảm thấy xấu hổ, cảm thấy mình ti tiện. Xác
anh hàng thịt còn cười nhạo vào cái lí lẽ mà ông đưa ra để ngụy biện: "Ta
vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn,…".
Trong cuộc đối thoại này, xác thắng thế nên rất hể hả tuôn ra những lời thoại
dài với chất giọng khi thì mỉa mai cười nhạo khi thì lên mặt dạy đời, chỉ,
châm chọc. Hồn chỉ buông những lời thoại ngắn với giọng nhát gừng kèm theo
những tiếng than, tiếng kêu.
-
Cuộc đối thoại giữa xác hàng thịt và hồn Trương Ba là cuộc đấu tranh giữa thể
xác và linh hồn cùng tồn tại trong một con người. Thể xác và linh hồn có quan
hệ hữu cơ với nhau, cả hai gắn bó với nhau để cùng sống, cùng tồn tại. Thể xác
có tính độc lập tương đối của nó, có tiếng nói của nó, có khả năng tác động
vào linh hồn, vì nó là nơi trú ngụ của linh hồn. Khi thể xác tiêu tan thì
linh hồn cũng mất. Khi linh hồn “bay đi” thì thể xác cũng trở về cát
bụi. Nhờ có linh hồn đấu tranh, chi phối với những ham muốn, những dục vọng
tầm thường của thể xác mà nhân cách được hoàn thiện, tâm hồn được trong sáng.
Câu nói của xác hàng thịt: “Tôi là
cái bình để chứa đựng linh hồn” đã cho thấy mối quan hệ hữu cơ
giữa thể xác và linh hồn, làm cho ý nghĩa ẩn dụ của đoạn đối thoại giữa hồn
Trương Ba với xác hàng thịt thêm cụ thể, sâu sắc.
|
Bi kịch bị từ chối.
|
b./ Bi kịch Hồn Trương
Ba được đẩy lên tới đỉnh điểm, cao trào ở màn đối thoại giữa Hồn Trương Ba
với những người thân. Đó là bi kịch bị từ chối.
-
Người vợ mà ông rất mực yêu thương giờ đây buồn bã và cứ nhất quyết đòi bỏ
đi. Với bà "đi đâu cũng được… còn hơn là thế này". Bà đã nói
ra cái điều mà chính ông cũng đã cảm nhận được: "ông đâu còn là ông, đâu
còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa".
-
Cái Gái, cháu ông giờ đây đã không cần phải giữ ý. Nó một mực khước từ tình
thân : tôi không phải là cháu ông… Ông nội tôi chết rồi. Cái Gái yêu quý ông
nó bao nhiêu thì giờ đây nó không thể chấp nhận cái con người có "bàn
tay giết lợn", bàn chân "to bè như cái xẻng" đã
làm "gãy tiệt cái chồi non", "giẫm lên nát cả cây sâm quý
mới ươm" trong mảnh vườn của ông nội nó. Nó hận ông vì ông chữa
cái diều cho cu Tị mà làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc,
cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó, "Ông nội đời nào thô lỗ, phũ phàng
như vậy". Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự xua đuổi
quyết liệt: "Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!".
-
Chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm thấy
thương bố chồng trong tình cảnh trớ trêu. Chị biết ông khổ lắm, "khổ
hơn xưa nhiều lắm". Nhưng nỗi buồn đau trước tình cảnh gia đình
"như sắp tan hoang ra cả" khiến chị không thể bấm bụng mà đau, chị
đã thốt thành lời cái nỗi đau đó: "Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không
đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy,
đau đớn thấy… mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch
lạc, nhòa mờ dần đi, đến nối có lúc chính con cũng không nhận ra thầy
nữa…"
-
Tất cả những người thân yêu của Hồn Trương Ba đều nhận ra cái nghịch cảnh trớ
trêu. Sau tất cả những đối thoại ấy, mỗi nhân vật bằng cách nói riêng, giọng
nói riêng của mình đã khiến Hồn Trương Ba cảm thấy không thể chịu nổi. Nỗi
cay đắng với chính bản thân mình cứ lớn dần… lớn dần, muốn đứt tung, muốn vọt
trào.
-
Nhà viết kịch đã để cho Hồn Trương Ba còn lại trơ trọi một mình với nỗi đau
khổ, tuyệt vọng lên đến đỉnh điểm, một mình với những lời độc thoại đầy chua
chát nhưng cũng đầy quyết liệt: "Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân
xác không phải của ta ạ… Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và
tự đánh mất mình? "Chẳng còn cách nào khác"! Mày
nói như thế hả? Nhưng có thật là không còn cách nào khác? Có thật không còn
cách nào khác? Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!".
Đây là lời độc thoại có tính chất quyết định dẫn tới hành động châm hương gọi
Đế Thích một cách dứt khoát. Sự do dự bị đẩy lùi, bị xua tan. Sự tỉnh
ngộ của hồn Trương Ba tuy muộn mằn nhưng thật có nhiều ý nghĩa. Con đường tự
giải thoát, linh hồn đã nhìn thấy ánh sáng.
|
Bi kịch "bên
ngoài một đằng, bên trong một nẻo"
|
c./Bi kịch của nhân vật
Hồn Trương Ba được kết thúc trong màn đối thoại với Đế Thích - Bi kịch "bên
ngoài một đằng, bên trong một nẻo".
-Cuộc trò chuyện giữa Hồn Trương Ba với Đế Thích trở thành nơi tác giả
gửi gắm những quan niệm về hạnh phúc, về lẽ sống và cái chết. Hai lời thoại
của Hồn trong cảnh này có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng: Không thể bên
trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn… Sống
nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái
thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi
sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!
- Người đọc, người xem có thể nhận ra những
ý nghĩa triết lí sâu sắc và thấm thía qua hai lời thoại này. Thứ nhất, con
người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Không thể có một tâm
hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối
bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác,
không thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Thứ hai,
sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ,
sống gửi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô
nghĩa.
- Những lời thoại của Hồn Trương Ba với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý
thức rõ về tình cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của mình, thấm thía nỗi
đau khổ về tình trạng ngày càng vênh lệch giữa hồn và xác, đồng thời càng
chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung nấu của nhân vật trước lúc Đế Thích xuất
hiện.
- Quyết định dứt khoát xin tiên Đế Thích cho cu Tị được sống lại, cho
mình được chết hẳn chứ không nhập hồn vào thân thể ai nữa của nhân vật Hồn
Trương Ba là kết quả của một quá trình diễn biến hợp lí. Hơn nữa, quyết định
này cần phải đưa ra kịp thời vì cu Tị vừa mới chết. Hồn Trương Ba thử hình
dung cảnh hồn của mình lại nhập vào xác cu Tị để sống và thấy rõ "bao
nhiêu sự rắc rối" vô lí lại tiếp tục xảy ra. Nhận thức tỉnh táo
ấy cùng tình thương mẹ con cu Tị càng khiến Hồn Trương Ba đi đến quyết định
dứt khoát. Qua quyết định này, chúng ta càng thấy Trương Ba là con người nhân
hậu, sáng suốt, giàu lòng tự trọng. Đặc biệt, đó là con người ý thức được ý
nghĩa của cuộc sống.
|
Ứng xử của Trương Ba
|
d./ Ứng xử của Trương
Ba trước tình trạng bi kịch đó :
-
Trương Ba không chấp nhận buông xuôi: khi không thể thay đổi được xác
hàng thịt để xác có thể hoà hợp với hồn, Trương Ba quyết định từ bỏ mối quan
hệ với cái xác ấy :"chẳng lẽ
nào ta lại chịu thua mày...","không cần đến cái đời sống do mày
mang lại".
- Khẳng định mạnh mẽ nhu
cầu được sống là mình: "không
thể bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo". Với Trương Ba, nhu cầu sống cuối cùng vẫn được đánh giá cao
hơn nhu cầu tồn tại. Đặt ra vấn đề "sống như thế nào"là biểu
hiện của ý thức cao về sự sống và cách sống để có một cuộc sống hạnh phúc và
có ý nghĩa.
-
Trong đoạn kết, Trương Ba được giải thoát khỏi bi kịch. Đoạn kết vở kịch "Hồn
Trương Ba, da hàng thịt" gợi cho độc giả, khán giả nhiều bâng
khuâng. Hồn Trương Ba không theo Đế Thích về trời để chơi cờ, mà lại hóa
thành màu xanh của cây vườn, vị thơm ngon của trái na, vẫn quấn quýt với
người thân, gần gũi nơi bậc cửa, trong ánh lửa, nơi cầu ao, trong cơi trầu,
con dao... của vợ con thương yêu. Cho dù thân cát bụi lại trở về cát bụi,
nhưng hồn Trương Ba cao khiết vẫn bất tử trong cõi đời. Cái kết đầy chất thơ
ấy đã làm cho tư tưởng nhân văn tỏa sáng tác phẩm.
|
Ý nghĩa tư
tưởng:
|
Ý nghĩa tư
tưởng:
a./ Tư tưởng của Lưu Quang Vũ :
- Được sống làm người
là rất quý giá song được sống đúng là mình, sống trọn vẹn giá trị mà mình vốn
có và theo đuổi còn quý giá hơn. Sự sống chỉ có ý nghĩa khi con người được
sống tự nhiên với sự hài hoà giữa thể xác và tâm hồn.
- Con người phải luôn luôn biết đấu tranh với những ngịch cảnh, với chính bản
thân, chống lại sự dung tục để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị
tinh thần cao quý.
b./Đánh giá ý nghĩa của tư tưởng ấy :
- Có ý nghĩa thực tế
rất cao bởi đây không chỉ là vấn đề của nhân vật Trương Ba mà còn là vấn đề
của con người hiện đại.
-
Gợi mở lối sống đúng đắn để đem lại hạnh phúc và sự thanh thản của tâm hồn.
|
Kết bài
|
Tóm lại, trong đoạn trích, tác giả Lưu Quang Vũ đã thể hiện một cách sâu sắc và
sinh động bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba, bi kịch của một con người không
được sống toàn vẹn mà mình phải sống "bên trong một đằng, bên ngoài một
nẻo".
Qua bi kịch của Hồn Trương Ba, nhà viết kịch tài năng đã gửi tới độc giả
nhiều thế hệ những triết lí nhân sinh sâu sắc về hạnh phúc, sự sống và cái
chết, đồng thời phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy
giờ, góp phần đấu tranh chống lại sự tha hoá ở mỗi con người trong đời sống
hiện nay.
|
Nhận xét
Đăng nhận xét